- Published on
Vài nét về Bà Tổ Cô
- Authors
- Name
Table of Contents
Tương truyền rằng mỗi dòng họ có một vong (linh hồn người đã chết) linh thiêng và đứng đầu các vong của dòng họ đó. Đó là Bà Tổ cô.
Vài nét về bà Tổ Cô
Tương truyền rằng mỗi dòng họ có một vong (linh hồn người đã chết) linh thiêng và đứng đầu các vong của dòng họ đó. Đó là Bà Tổ cô. Đây là các bà cô ở đời thứ tư- còn gọi là bà Cô Tổ tứ đại. Số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào số người ở cõi âm của họ ấy. Từ 50-200 người thì bầu 3-4 bà Tổ Cô . Khi một thế (một đời) ở cõi âm chuyển thế (chết, đầu thai) thì bà cô Tứ đại thành ngũ đại. Bà cô Tam đại lên thay. Ở các đời khác tứ đại, người ta gọi những người chết trẻ là bà cô, ông cậu (ông mãnh) chứ không gọi là tổ. Các bà cô Tổ được phân biệt bằng màu sắc áo mặc, còn mũ đội thì giống nhau: Áo xanh: tộc trưởng, phụ trách khoa học, kĩ thuật Áo hồng: giáo dục, sư phạm Áo đỏ: hôn nhân, vợ chồng Áo đen: sống chết, sinh tử Áo trắng: giáo dục, đạo đức Áo tím: khoa học kĩ thuật, phẩm hạnh Áo vàng: khoa học kĩ thuật, đào tạo chuyên sâu
Note: Khi một thế (một đời) ở cõi âm chuyển thế (chết, đầu thai) thì bà cô Tứ đại thành ngũ đại. - Nên nói là ... khi một thế (một đời) ở cõi âm đầu thai hoặc cõi dương chết thì bà cô Tứ Đại thành Ngũ Đại.
Mình xin có một ý kiến đóng góp, bà Cô ông Mãnh đúng là những người trong họ chết trẻ và họ đúng là rất thiêng. Vì chưa tận số nên linh hồn họ chưa siêu thoát mà lưu luyến lại dương gian, nhưng đó không phải bà cô Tổ. Trong bàn thờ của người Việt thường có ba bát hương, một để thờ thần linh thổ địa, một bát của tổ tiên và một bát thờ bà cô tổ, Còn bà Cô ông Mãnh hoặc những người chưa đoạn tang phải lập bàn thờ riêng, trong văn hóa Việt nam không có đồng Cậu, đồng cậu chỉ xuất hiện về sau này. Thờ cúng bà cô Tổ và cô Đồng là nét văn hóa tín ngưỡng rất riêng của người Việt, cô Đồng là người được lưa chọn rất kĩ, cô Đồng là người liên kết giữa tâm linh và con người. Hầu đồng là một bé gái cũng được lựa chọn, khi cô Đồng đi lấy chồng thì hầu Đồng lên thay, cô Đồng phải là cô gái đồng trinh và thuần khiết, còn Đồng cốt gọi hồn thì lại khác.... v.v..
Bà cô Tổ có thể là hiện thân của bà Mụ, chuyện giúp đỡ chuyện sinh đẻ được mẹ tròn con vuông, khi mang thai bà Mụ là người nặn ra hình đứa trẻ. Hoặc có thể là bà chúa Thượng ngàn, trong một lần đi nghe cô Đồng tôi có nghe thấy câu hát " Cha mất tháng 3 mẹ mất tháng 7 lậy bà cô Tổ con xin nhập đồng". Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền bắc và miền trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện. Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng tam phủ hay tứ phủ. Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh cả hai cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng). Khi còn trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường dùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc.
Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc ... Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.
Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau, dạy chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét ...
Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.
Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về ...
Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn.
Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính.
Chuyện bà Tổ Cô chín đời
Trở lại câu chuyện cũ, khi tôi vâng theo lời Tam Toà Thánh Mẫu về quê tổ đem đất đình chùa và ngã ba quê hương đắp lên mộ cụ tứ đại, thì tôi lại được biết thêm một ngôi mộ nữa. Đó chính là mộ bà tổ cô chín đời của cả dòng họ tôi. Thấy mọi người trong thôn đồn nhau là bà cực linh và phù trì cho cháu con trên khắp nẻo đường đất nước.
Cùng nằm trong một khu đất của dòng họ nhưng không hiểu sao mộ của cụ tứ đại thì to cao hoành tráng trong khi đó mộ của bà tổ cô chín đời lại bé nhỏ thấp hơn. Và câu chuyện có lẽ bắt đầu xảy ra khi có chuyện chênh lệch đó. Cứ mỗi một năm lại có một người trong chi họ ra đi ở độ tuổi rất sớm. Nhưng chẳng có ai biết đến chuyện này. Và cái bí mật này chỉ được sáng tỏ khi mộ bà tổ cô được xây dựng lại với quy mô hoành tráng nhất trong thôn VT. thuộc huyện NHÂN BÌNH tỉnh HÀ NAM . Trong thôn VT. chỉ duy nhất có hai họ là họ CAO và họ NGUYỄN. Họ CAO có số nhân khẩu đông hơn. Nhưng mỗi lần có cúng giỗ đình đám thì họ hàng lại thưa thớt lẻ tẻ trong tình trạng ly tán, mạnh ai biết nấy.
Thanh minh năm 2007, tôi về quê tổ thăm mộ cụ tứ đại và bà tổ cô. Cùng trong một nghiã trang mà dòng họ NGUYỄN tập trung đến mấy chục người, thăm mộ ăn uống hội họp ngay ở đó, bàn luận sôi nổi hỏi thăm tên tuổi phân định chi nhánh trên dưới thật là tương thân tương ái. Ngoái lại nhìn chi họ tôi thưa thớt lẻ tẻ chẳng ai biết đến ai. Không có lấy một người đứng ra tập trung con cháu. Lòng tôi chạnh buồn. Tôi thầm tự nhủ sẽ có ngày tôi sẽ làm cho dòng họ tôi trở nên tập trung đoàn tụ trong mỗi dịp cúng giỗ, cho vong linh tổ tiên không phải xót xa với cảnh đìu hiu điêu tàn trong dòng họ.
Sau khi bị chết lâm sàng ở đền KIẾP BẠC trở về và được ơn trên ban cho khả năng gọi vong dù lúc đó tôi chưa biết tu tập gì. Tôi quyết định quay về quê tổ gọi vong cụ tứ đại và bà tổ cô lên để hỏi nguyên nhân ly tán của dòng họ. Cụ tứ đại thăng lên trước sự chứng kiến của khoảng 20 người trong họ, đa số là các bậc tiền bối lão thành trong họ. Cụ cho biết là người trước đã sai trong việc xây mộ mà lớp người sau cũng chẳng thèm để ý. Cứ để mặc ngôi mộ của bà tổ cô trong tình trạng chênh lệch như thế từ lâu lắm rôì. Kết luận là phải xây sửa lại mộ bà tổ cô cho đúng với vai vế của bà, để bà có thể mồ yên mả đẹp phát huy linh lực phù trì cho con cháu. Tiếp đó tôi có thỉnh hương linh bà tổ cô lên, nhưng có điều bà chẳng nói gì cả mà cứ gật gù nhai trầu bỏm bẻm. Hai mắt lộ tia sát khí rất ghê rợn rồi cuối cùng bà thăng.
Đầu năm 2009 ngôi mộ bà tổ cô được trùng tu xong, cao đẹp và uy thế theo thiết kế của tôi. Từ lúc tôi thỉnh được vong bà tổ cô lên, các cụ trong họ có vẻ nể trọng tôi lắm. Trong họ có việc gì thường hay gọi điện hỏi ý kiến tôi. Tôi vinh dự được các cụ chọn thay mặt cho cả họ tiến hành lễ tạ mộ bà tổ cô và tiến cúng tổ tiên nhân ngày thanh minh. Phải biết rằng ở quê họ coi trọng cái danh lắm, một míêng giữa làng bằng một sàng trong bếp. Mà xét về mặt vai vế thì tôi là người thấp nhất trong họ.
Thanh minh năm nay không biết là do có phải là vì sự tối linh tối thiêng của bà tổ cô hay không mà bỗng nhiên con cháu trong dòng họ CAO từ khắp mọi miền đất nước từ THÁI NGUYÊN, HÀ NỘI, HẢI PHÒNG, NAM ĐỊNH, TP HỒ CHÍ MINH đổ về thăm quê tổ, xe con đỗ kín làng, người đông như đi hội.
Khi tôi bắt đầu tiến hành lễ tạ mộ bà tổ cô thì sau lưng tôi tập trung độ 100 người. Phần lớn là người trung tuổi. Họ im lặng thành kính lễ bái tổ tiên. Năm nay số người trong dòng họ CAO đi thăm mộ đã tập hợp đông áp đảo hơn dòng họ NGUYỄN rất nhiều tính tại thời điểm đó. Đây là một sự kiện có lẽ phải là từ nhiều đời họ CAO nay mới có.
Khi lễ tạ mộ đã xong, bà tổ cô nói vào tai tôi yêu cầu làm theo ý bà là tập trung hết con cháu về nhà thờ họ để bà nói chuyện về một bí mật thường xảy ra trong dòng họ. Và yêu cầu đi gọi chị NGA là chị họ tôi, sống trong thôn đến nhà thờ họ để bà nhập đồng tá khẩu. Ý bà được truyền ra và tất cả mọi người bổ ra khắp thôn để đi tìm chị N.
Ác một nỗi là chị N. lại lấy một ông chồng họ NGUYỄN. Tiếng đồn về bà tổ cô linh thiêng họ CAO lan ra nhanh như vệt dầu loang. Trong phút chốc mà cả thôn đã biết. Trâu buộc thì ghét trâu ăn, lấy cớ là con gái xuất giá tòng phu chỉ biết lo việc bên chồng thôi, còn họ ngoại thì để họ ngoại lo nên ông ta nhất định không cho vợ đến nhà thờ dòng họ CAO. Ở quê đặc biệt vẫn còn những chuyện kèn cựa tức cười như vậy đó. Nếu là vợ tôi thì tôi sẽ thả đi cho nhanh ?
Khi cả họ tập trung đông đủ ở nhà thờ họ và đang sôi nổi bàn tán về vấn đề chị N. thì bỗng có một người reo lên: "Ơ kìa! Chị N. đã đến kìa, tránh ra cho chị vào..."
Chị N. bước vào với một dáng điệu rất kỳ lạ. Hai tay thì buông thõng, đằng sau gáy cứ dâng lên tựa hồ như có ai đang túm cổ kéo đi làm tôi cứ liên tưởng đến con mèo ăn vụng bị túm gáy lẳng ra sân, và chị N. cũng giống như vậy. Hai mắt thì cứ đờ đẫn nhìn thẳng về đằng trước chẳng thèm chào hỏi bất cứ cụ nào cao niên trong họ. Chị đi thẳng vào chiếu giữa ngồi phịch xuống, mặt hướng vào ban thờ mặc kệ tiếng phản đối của các cụ là "Tại sao con ranh dám ngồi vào chỗ của các cụ, con này láo...?"
Bình tĩnh quan sát tôi nhận ra đây chính là bà tổ cô mượn xác chị N.. Tôi ra hiệu cho mọi người trật tự. Tôi cung kính lễ lạy bà rồi dâng bà trầu nước, và mời bà cùng tham dự lễ tiến cúng tổ tiên. Và tôi cảm thấy nhẹ hết cả người vì không còn cần phải làm lễ triệu thỉnh hương linh bà nữa. Trong lúc tiến cúng, bà cũng trang trọng lễ bái tổ tiên nhiều đời dòng họ CAO trước các con mắt kinh dị của cháu con đang quỳ đằng sau. Họ đang lễ bái một vong linh hiển hiện trước mắt chứ không phải vô hình như thường nhật, kỳ lạ thay cõi giới tâm linh...?
Sau khi lễ tiến cúng tổ tiên kết thúc mọi người ngồi quây quần quanh bà tổ cô hỏi đủ thứ chuyện. Và bà hé lộ cho mọi người một bí mật thật là khủng khiếp : "Bà đại tổ cô chín đời tên C.T.T.C mất khi còn rất trẻ ước độ 18 tuổi thôi. Bà chết vào giờ linh nên bà cũng rất linh. Bà thường phù hộ cho cả dòng họ trong thôn bình yên. Cho đến một ngày, người ta xây mộ cụ tứ đại to cao lừng lững che khúât cả mộ bà tổ cô bé nhỏ. Xét về vai vế thì bà đã là bậc tiền bối trên cụ tứ đại 5 đời. Và hình như họ cũng ít ngó ngàng đến phần mộ của bà. Bà rất tức giận! Mà gây họa với người dương thì còn đường tránh, còn gây họa với người âm thì chạy trời cũng không tránh khỏi nắng. Và thế là cứ mỗi năm một người trẻ tuổi trong chi họ cắp nón ra đi về thế giới bên kia không hồi âm. Những người sống thì cứ dần dần phiêu bạt khắp chốn giang hồ kiếm sống. Họ CAO ngày càng một tàn lụi rồi đến các đời sau cũng chẳng biết là tại sao. Cả họ phần lớn đều nghèo và lao khổ...Thực ra theo lý giải của tôi khi người ta xây mộ cụ tứ đại to hơn mộ bà tổ cô thì họ đã làm mất quân bình âm dương trong phần tâm linh dòng họ cộng thêm sự trù yểm của bà tổ cô.
Bà tổ cô nói là may là đến lúc dòng họ CAO bắt đầu đi lên nên tôi xúât hiện tìm ra nguyên nhân và giải quyết vấn nạn trên. Điều này làm cho tôi nhớ lại cảnh gia tộc dòng họ tôi bị chìm đắm nhiều đời cho đến khi tôi xuất hiện như đám mây lành xua tan bóng tối u ám che phủ cả dòng họ và làm phát dương quang đại cho dòng họ, cả người âm lẫn người dương tại đền KIẾP BẠC. Cõi tâm linh phối hợp thật là lô gic...
Tôi hỏi thế bà có biết con là ai không ? Bà bảo: " Có chứ, con là thằng may phúc do cơ duyên trời đất đã sớm tu chứ không giờ này đang ngồi trên tủ ăn chuối xanh cả nải. Cha mày lúc sống thì bạc phúc, lúc chết thì duyên lành nhiều đời phát động nên đã thoát cảnh đoạ đày dưới âm và sắp được đi theo chư vị tu học..." Tôi hỏi:" Thế hôm nay chồng chị N. không cho chị đến đây thì làm thế nào mà bà lại mượn xác được. Bà bảo: " tí nó tỉnh lại cứ hỏi nó ấy...?" Dặn dò con cháu một lúc rồi bà thăng. Nét mặt bà lúc đó trông rất hạnh phúc.
Khi tỉnh lại chị N. kể, lúc chồng đang cấm cố chị thì bỗng nhiên ai đó nhập vào chị và có một sức mạnh vô hình nào đó kéo cổ chị lôi đi. Ông chồng thì bị đẩy bật ra ngã sấp mặt xuống nền nhà. Lúc tỉnh lại chẳng hiểu tại sao lại ngồi ở giữa nhà thờ họ. Ghê gớm thay linh lực của bà tổ cô.
Tối hôm đó khi tôi ở nhà, trong giấc ngủ tôi chiêm bao thấy một cô bé áo xanh. Sáng ra tôi kể với vợ là: "Đêm qua nằm mơ thấy một con ranh áo xanh, không biết là con nhà ai mà đưa cho anh một quyển sổ to lắm và giao cho anh từ nay trông coi việc cúng kiếng của dòng họ Cao". Lời nói vừa dứt thì bỗng nhiên tay phải tôi đưa lên tát bốp một cái vào mồm mình. Tôi chợt tỉnh ra. "Trời đất ơi!" Đó chính là bà tổ cô chín đời của tôi, và tôi đã buông lời xúc phạm đến bà. Tôi lật đật quỳ ngay xuống xin lỗi bà nhưng bụng lại mừng khấp khởi vì biết bà lúc nào cũng ở bên cạnh phù trì cho mình.
Thế các cụ mới có câu: SỐNG VỀ MỒ VỀ MẢ CHỨ AI SỐNG VỀ CẢ BÁT CƠM ĐÂU. Thế mà đầu tiên tôi nghe câu này mãi mà chẳng hiểu cái gì...?
Kính bút.